Cẩn thận tam thất giả
PGS.TS Trần Công Khánh – giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát triển cây thuốc Việt Nam – cho biết tam thất (tam thất bắc) là rễ của cây tam thất, còn gọi là sâm tam thất, kim bất hoán (vị thuốc quý, vàng không đổi được).
Bộ phận chủ yếu dùng làm thuốc là củ tam thất, dài 2-4cm, đường kính 1-2cm. Đầu củ sần sùi, ngoài nâu hoặc vàng nâu, có nhiều nếp nhăn dọc. Mặt cắt qua củ mịn, màu xám nhạt. Giá trị của tam thất không căn cứ vào củ to hay nhỏ, mà phụ thuộc vào tuổi của cây.
Cây 6-7 năm tuổi mới cho củ có chất lượng tốt. Tam thất làm tăng nhanh quá trình phục hồi sức khỏe cho người suy nhược hoặc sau khi bị bệnh nặng, tốt nhất là với sản phụ. Thời gian gần đây, tam thất cũng được dùng như nhân sâm để hỗ trợ điều trị u bướu nhưng không làm tăng huyết áp.
Nụ hoa tam thất cũng là một vị thuốc quý, có vị ngọt, tính mát, thanh nhiệt, bình can, hạ huyết áp và an thần, trấn tĩnh. Thường dùng để chữa các chứng và bệnh cao huyết áp, hoa mắt, chóng mặt (bị rối loạn tiền đình, thiểu năng tuần hoàn não), ù tai, viêm họng.
Nụ hoa còn có tác dụng tăng lực, tăng khả năng làm việc, giảm căng thẳng mệt mỏi, tăng đề kháng giúp cơ thể phòng chống bệnh tật, hỗ trợ điều trị bệnh gan…
Cách sử dụng: Lấy 3-4g nụ hoa tam thất, hãm trong nước sôi như pha trà (làm nhiều lần), uống đến khi nước hãm không còn vị đắng nữa.
Theo đông y, tam thất có vị đắng, hơi ngọt, tính ấm; vào các kinh can, thận; có tác dụng hoạt huyết, bổ huyết, cầm máu, tan huyết ứ, tiêu sưng và giảm đau.
Thường dùng chữa thổ huyết, ho ra máu, chảy máu cam, băng huyết, rong kinh, bế kinh do ứ huyết, thường dùng cho phụ nữ sau khi sinh đẻ. Ngày dùng 4-6g dạng thuốc bột, thuốc sắc hay cao lỏng. Dùng ngoài lấy củ tươi giã đắp hoặc lấy bột rắc lên vết thương để cầm máu.
Do tam thất có nhiều tác dụng tốt nên có nhiều cây thuốc của Việt Nam cũng “giả danh” tam thất, gọi là tam thất nam. Đó là các loài khác nhau trong cùng chi Panax (họ nhân sâm) như tam thất nam, tam thất lá xẻ; thậm chí trong các họ không có quan hệ họ hàng gần với nhân sâm như họ gừng (tam thất gừng), họ cúc (cúc tam thất), hoặc họ râu hùm (hồi đầu thảo).
Ngoài hai loại tam thất hoàng và tam thất xẻ lá là cây mọc hoang dã, đã bị khai thác cạn kiệt, nhưng không được trồng, ba loài sau thì đang được trồng để lấy rễ củ làm giả tam thất vì chúng có củ gần giống với tam thất, nhưng không có hoạt chất như tam thất bắc nói trên.
Máu tụ dùng tam thất cẩn thận tai biến
ThS Hoàng Khánh Toàn – nguyên chủ nhiệm khoa y học cổ truyền, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 – nhấn mạnh đông y xếp vào loại thuốc chỉ huyết, đầu vị của cầm máu.
Thực tiễn lâm sàng đã chứng minh tam thất ngoài tác dụng bổ tương tự nhân sâm, nó còn là vị thuốc có nhiều tác dụng chữa bệnh cầm máu, hóa ứ, giảm đau (dùng cho các trường hợp huyết ứ dẫn đến đau đớn, các trường hợp chấn thương, sưng đau do huyết tụ).
Cần lưu ý không nên dùng tam thất một cách đơn điệu để “bổ” như nhân sâm mà nên sử dụng theo hướng tác dụng cầm máu là chính, tiếp đến là tác dụng hóa ứ, giảm đau, tiêu u.
Tốt nhất là dùng tam thất dưới dạng “thực phẩm” tam thất tần gà hoặc dùng dưới dạng bột mịn, ngày 4 – 10g, uống với nước ấm.
Khi dùng cần chú ý: Đối với trường hợp làm tiêu máu tụ, chỉ nên sử dụng tam thất khi triệu chứng xuất huyết mới xảy ra. Ví dụ xuất huyết tiền phòng ở mắt, dùng tam thất lúc này rất tốt. Nếu trong mạch máu hoặc trong tim đã có các cục máu đông, không nên dùng tam thất nữa.
Nếu dùng, cục máu này sẽ là trung tâm để kết tụ, làm cho cục máu to dần lên, ảnh hưởng đến sự lưu thông của mạch máu, đôi khi gây ra đột quỵ….
Theo TS Đoàn Văn Minh – trưởng khoa y học cổ truyền, Đại học Y Dược Huế – bột tam thất là vị thuốc không chỉ có tác dụng hoạt huyết, cầm máu mà còn có tác dụng dưỡng huyết rất có lợi cho sức khỏe, nhưng có nhiều trường hợp không nên dùng để tránh tác hại xấu xảy ra.
– Người bị cảm mạo: Do bột tam thất có tính ấm nên nếu người bị phong nhiệt dùng bột tam thất sẽ dễ dẫn đến chứng cảm mạo phong nhiệt.
– Thời kỳ kinh nguyệt: Bột tam thất có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông máu và loại bỏ huyết ứ, nếu uống trong thời kỳ kinh nguyệt sẽ dễ gây ra máu nhiều. Tuy nhiên đối với người bị rối loạn kinh nguyệt thể huyết ứ thì có thể dùng bột tam thất để điều hòa kinh nguyệt.
– Phụ nữ có thai: Bột tam thất có tác dụng thúc đẩy quá trình tuần hoàn máu và giảm huyết áp nên nếu phụ nữ có thai uống bột tam thất sẽ dễ bị động thai, trường hợp nặng sẽ dẫn đến sẩy thai.
– Người có mẫn cảm với bột tam thất: Trước khi dùng bột tam thất, chúng ta cần hiểu rõ cơ thể mình xem có bị dị ứng không. Sau khi dùng nếu có biểu hiện dị ứng phải ngừng ngay.
– Trẻ vị thành niên: Bột tam thất có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông máu và loại bỏ huyết ứ nên trẻ em đang trong thời kỳ phát triển, các chức năng tạng phủ chưa mạnh, nếu sử dụng bột tam thất không đúng cách sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển.
– Không nên dùng bột tam thất với một số thực phẩm: Không nên dùng bột tam thất với đậu tằm, cá, hải sản và thức ăn cay, lạnh và chua, vì những thực phẩm này sẽ làm giảm đáng kể sự hấp thụ của cơ thể đối với các thành phần của bột tam thất, đồng thời có thể gây dị ứng hoặc ngộ độc.
– Nếu không kiên trì thì không nên sử dụng: Uống bột tam thất phải tuân thủ trong thời gian dài, dùng bột tam thất theo kiểu “câu ba ngày, giăng lưới phơi hai ngày” không thể đạt được hiệu quả chăm sóc sức khỏe như mong muốn.
Người thích hợp nhất để dùng bột tam thất
Người có thể chất huyết ứ là những trường hợp thích hợp nhất để sử dụng bột tam thất do dược liệu này có tác dụng tiêu huyết ứ, thúc đẩy lưu thông máu.
Huyết ứ có thể gây ra nhiều bệnh khác nhau như tắc nghẽn mạch máu não, tim mạch, giãn tĩnh mạch, như u xơ tử cung ở phụ nữ, u nang buồng trứng, phì đại tuyến vú…
Bên cạnh đó huyết ứ cũng còn là hậu quả xảy ra khi mắc một số loại bệnh, phát triển đến một giai đoạn nhất định sẽ xuất hiện tình trạng huyết ứ, như hoại tử tứ chi ở bệnh nhân đái tháo đường.
Biểu hiện của người bị huyết ứ: Có điểm ứ huyết ở đầu lưỡi và cạnh lưỡi; suy giảm trí nhớ; luôn cảm thấy cổ họng khô rát; môi và hốc mắt xỉn màu, nước da xỉn màu, trên mặt dễ xuất hiện các chấm đen;
Da khô, trên bề mặt da nổi lên những vết máu đỏ hoặc xanh, đặc biệt dễ xuất hiện vết bầm tím khi chạm vào da; có những nốt đau cố định trên cơ thể, đau dữ dội vào ban đêm và nhẹ hơn vào ban ngày.