Chiều 5-8, Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và lãnh đạo một số bộ, ngành về điều hành chính sách tiền tệ.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, trong 7 tháng năm nay đã triển khai đồng bộ các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận tín dụng. Từ đó phục hồi sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng hấp thụ vốn, thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hoạt động hệ thống tổ chức tín dụng.
Tăng trưởng tín dụng tích cực
Đến ngày 31-7, tỉ giá trung tâm ở mức 24.255 đồng/USD, tăng 1,63% so với cuối năm 2023, mức trung bình thấp và ổn định so với các đồng tiền trong khu vực và trên thế giới.
Đến cuối tháng 6-2024, lãi suất cho vay bình quân ở mức 8,3%/năm, giảm 0,96% so với cuối năm 2023; lãi suất tiền gửi bình quân ở mức 3,59%/năm, giảm 1,08%/năm so với cuối năm 2023.
Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống phục hồi và tăng dần, cao hơn so với mức tăng cùng kỳ năm 2023, hết quý 2-2024 đạt 6%. Cuối tháng 7-2024, dư nợ tín dụng gần 14,33 triệu tỉ đồng, tăng 14,99% so với cùng kỳ 2023 và tăng 5,66% so với cuối năm 2023.
Nhiều chương trình tín dụng được triển khai như gói tín dụng 120.000 tỉ đồng cho vay nhà ở xã hội, tín dụng cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản với tổng lũy kế 34.400 tỉ đồng.
Nhấn mạnh chính sách tiền tệ có vai trò hết sức quan trọng, song Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động của hệ thống ngân hàng vẫn còn những khó khăn trước mắt và lâu dài.
Đó là do áp lực lạm phát còn cao, mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng, tăng trưởng tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhu cầu vay vốn tăng cao vào cuối năm, nhu cầu ngoại tệ tăng, rủi ro từ căng thẳng địa chính trị trên thế giới…
Cùng với đó, số tiền gửi được người dân gửi trong ngân hàng hiện đạt trên 15 triệu tỉ đồng, Thủ tướng yêu cầu cần có giải pháp để nguồn vốn này phục vụ đắc lực cho sản xuất, kinh doanh.
Giảm lãi suất cho người dân, doanh nghiệp
Thủ tướng nêu các kinh nghiệm trong điều hành như phải trên cơ sở dữ liệu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam.
Điều hành không giật cục, phối hợp đồng bộ giữa các chính sách; đưa ra thông điệp, chính sách phải rõ ràng, dứt khoát, phù hợp thực tiễn và đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện…
Các giải pháp tập trung là kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với các chính sách khác để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh tiền tệ.
Trong đó, với chính sách tiền tệ cần điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách khác. Điều hành tăng trưởng tín dụng khoảng 15%, tập trung cho các động lực tăng trưởng truyền thống và động lực tăng trưởng mới.
Điều hành tỉ giá linh hoạt bằng các công cụ khác nhau. Tiếp tục chỉ đạo, vận động các ngân hàng tiết giảm chi phí, giảm lãi suất cho vay với các động lực tăng trưởng, các dự án hạ tầng.
Điều hành linh hoạt, hài hòa, hợp lý, cân bằng giữa lãi suất và tỉ giá. Điều hành tín dụng phù hợp diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Thu hồi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng từ tổ chức tín dụng không sử dụng hết và bổ sung cho các tổ chức tín dụng có khả năng tăng trưởng.
Tăng cường quản lý, kiểm soát thị trường vàng, ngoại tệ một cách căn cơ, bài bản. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt.