Vào giai đoạn ấy, có lẽ cánh nhà báo chúng tôi chính là những người được may mắn chứng kiến và trải nghiệm đầu tiên khoảnh khắc cánh cửa thế giới mở dần ra với một đất nước đang bị bao vây và cấm vận nặng nề…
Và tôi tin sẽ không thể bị đảo ngược!
1990 – We are the World…
Buổi tối lạnh giá, đang la cà ở “phố đi bộ Vaci” ở thủ đô Budapest, bỗng một nhóm thiếu niên kéo tôi nhập bọn để cùng… hát. Hát gì? We are the World! Hóa ra, các bạn rủ anh chàng “da vàng mũi tẹt” vào hát tập thể cho “đủ bộ” quốc tế.
Đây là bài hát nổi tiếng từ 1985 lan ra từ nước Mỹ với Michael Jackson và dàn hợp ca đủ màu da. Cái điệp khúc ngân nga đầy hào sảng “We are the World – We are the children…” cũng đã vào Việt Nam cùng thời gian.
Ở Sài Gòn, cùng với We are the World, khá nhiều ca khúc phương Tây, kể cả điệu Lambada, từ bên kia “bức màn tre”, bằng những “con đường dân gian” đã len lén đến và được đón nhận nồng nhiệt.
Tôi đi học quay phim ở xứ sở “dòng sông xanh” theo một học bổng của trường báo chí quốc tế OIJ, đúng vào thời điểm Hungary vừa chuyển qua thể chế mới. Với tôi, điều thú vị đầu tiên là chiếc tivi và những chiếc “ăng ten chảo” nhỏ nhắn, mọc lên khắp thủ đô Budapest, chiếc tivi suốt ngày có thể đưa khán giả ra bốn phương trời, từ thời sự đến giải trí qua rất nhiều kênh Pháp, Đức, Anh, Mỹ.
Trong khi ấy, người dân Việt Nam chỉ mới thỉnh thoảng được xem hình ảnh tin tức và bóng đá quốc tế chọn lọc từ truyền hình Liên Xô. Thêm nữa, khi đến thăm tòa báo tiếng Anh Budapest Times, tôi ngạc nhiên thấy nhiều đồng nghiệp làm việc trên máy vi tính, máy fax và điện thoại quốc tế bấm số trực tiếp (IDD) bắt đầu phổ biến ở nhiều công sở.
Ôi, buồn năm phút, ở báo Tuổi Trẻ của tôi, chiếc máy fax vẫn còn ngoài tầm tay. Phóng viên có máy đánh chữ và máy ảnh đã là “oách” lắm.
Rất cởi mở, nhà trường cho học viên tự do mang camera video ra ngoài để quay phim, chuẩn bị cho bài tốt nghiệp.
Trên đường phố nước bạn, tôi trông thấy ngoài những hiệu xe quen thuộc của “phe ta” như Lada, Moscovich, Trabant, Kamaz, còn ngược xuôi khá nhiều xe Âu – Mỹ và Nhật.
Hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu ở các cửa hàng và siêu thị tràn ngập, các cửa hàng “fast food” của Mỹ đã đổ bộ ở các phố trung tâm và nhà ga xe lửa.
Cuối tuần, tôi gặp du khách Tây Âu, Nhật Bản và cả Hàn Quốc đi lại nhộn nhịp. Tiếng Anh xuất hiện nhan nhản trên các bảng hiệu. Một số người ngạc nhiên khi biết tôi đến từ Việt Nam và trao đổi bằng tiếng Anh. Với nhiều người nước ngoài,
Việt Nam vẫn có nghĩa là những cuộc chiến tranh dai dẳng. Ống kính của tôi còn có dịp ghi nhận nhiều cuộc mít tinh, cờ xí, biểu ngữ, tranh ảnh “muôn hồng nghìn tía” ở các phố phường khi mùa bầu cử diễn ra.
Đi đâu cũng bắt gặp không khí làm ăn rộn rịp. Cộng đồng người Việt, trí thức và công nhân xuất khẩu lao động có mặt ở Hungary – chỉ khoảng vài ngàn, hầu như ai cũng “chạy chợ”.
Một đồng hương Sài Gòn làm phiên dịch lâu năm, buông một câu cảm thán bất hủ: Nhờ ơn Trời, nhờ ơn Chợ! Bản chất “Chợ” đúng nghĩa là kinh tế thị trường – một từ ngữ ở Việt Nam, vào các thập niên 1990 – 2000, sẽ phải trải qua tranh luận chật vật mới được thông hiểu và đồng thuận.
Trên mặt báo và trên nhiều diễn đàn, từ ngữ này có lúc “ẩn danh” trong thuật ngữ “kinh tế hàng hóa”, còn hai chữ “doanh nhân” thì chịu khó “náu mình” trong từ “doanh nghiệp”, riêng chữ “doanh nghiệp tư nhân” từng bị gọi chệch đi là “ngoài quốc doanh”…
Hai tháng ngắn ngủi ở Hungary cuối năm 1990 chưa đủ cho tôi học hỏi những từ ngữ và sinh hoạt khác lạ nói trên, song đã ló rạng niềm hy vọng về viễn cảnh tương đồng tươi sáng cho Việt Nam.
Đó là niềm sảng khoái khi được thấy mình sẽ là và phải là một phần của We are the World, chứ không phải là một quốc gia khác biệt, đóng cửa với bên ngoài!
1993 – 1994 – 1995, Nối vòng tay lớn
Ba năm liên tiếp tạo thành một bước ngoặt đánh dấu việc Việt Nam gỡ bỏ thành công hàng rào bao vây và cấm vận. Thật hạnh phúc khi tôi làm báo và lần lượt được trực tiếp đưa tin về các sự kiện “có một không hai” này: cộng đồng quốc tế tái viện trợ cho Việt Nam, Mỹ xóa cấm vận và bình thường hóa quan hệ, Việt Nam gia nhập ASEAN…
Cá nhân tôi còn may mắn hơn nữa nhờ những cánh cửa mở ấy. Tháng 10-1993, bằng học bổng của Thông tấn xã Reuters, tôi lên đường đi học tại Đại học Oxford – Anh quốc.
Trước ngày đi, anh Nguyễn Xuân Thuần – trưởng văn phòng đại diện UNDP tại TP.HCM – báo tin sẽ có hội nghị quốc tế tài trợ cho Việt Nam tại Paris vào tháng sau. Anh nhắn nhủ: “Ráng đi, đây là hội nghị rất quan trọng, tôi sẽ kiếm thư mời cho nhà báo”.
Nghe anh động viên, máu nghề nổi lên rần rần. Dù xin visa từ Anh qua Pháp rất nhiêu khê nhưng rồi tôi cũng có cách “qua cầu”. Ngày ấy, thời cuộc đã thay đổi lớn: Liên Xô sụp đổ, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, quan hệ với Trung Quốc bớt căng thẳng.
Một số cải cách kinh tế kịp thời và các cuộc vận động ngoại giao ráo riết của Việt Nam đang gây tiếng vang tốt với bên ngoài. Hội nghị International Donor là hành động chính thức cho thấy Việt Nam đã được mời vào chiếc chiếu hoa ở “sân đình” tài chính thế giới.
Tại đây, lần đầu tiên sau chiến tranh, Việt Nam được các nước công nghiệp cam kết cho vay 1,8 tỉ đô la Mỹ với hứa hẹn sẽ tăng gấp bội trong các năm sau, kèm các yêu cầu như đẩy mạnh cải cách kinh tế, cải tổ quốc doanh và hỗ trợ tư nhân phát triển.
Trước khi hội nghị loan báo kết quả, tôi đã phỏng vấn được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Khoan và Đại sứ Nhật Bản Hiroyuki Yushita – nước cấp viện trợ nhiều nhất.
Ngay khi cuộc họp báo kết thúc, khoảng 4h chiều – tức 9h tối giờ Việt Nam, thứ tư 10-11, tôi lao nhanh ra bên ngoài tìm cách fax bài viết về tòa soạn Tuổi Trẻ. “Ở hiền gặp lành”, một đồng nghiệp của Đài phát thanh Pháp RFI không ngần ngại đưa tôi về cơ quan để sử dụng ngay máy fax. Anh và tôi siết tay nhau, chia sẻ cảm xúc lâng lâng, sung sướng khó tả khi được chứng kiến cộng đồng quốc tế mở rộng vòng tay, mở rộng cả “túi tiền” để giúp Việt Nam!
Tin vui nối tiếp tin vui
Chỉ hơn ba tháng sau, Đài CNN và các hãng truyền thông lớn loan tin Mỹ có thể bỏ cấm vận Việt Nam nay mai. Tin không chính thức càng làm những người ủng hộ quan hệ Việt – Mỹ lẫn phe chống đối đều chộn rộn.
Tôi báo về và được anh Đoàn Khắc Xuyên, tổng thư ký tòa soạn, lệnh “cấp tập”: dù ở Anh nhưng phải làm cách nào đó “săn tin” ở Mỹ; phải phỏng vấn một nhân vật có thẩm quyền về sự kiện cực nóng đang được trông chờ… Máu “Đỏ – Trẻ – Sài Gòn” trào dâng, tôi tạm ngừng viết bài luận văn cho trường để trù tính tìm các đầu mối quen biết.
Tôi gọi điện cho phái đoàn Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc (UN) ở New York và một số giáo sư Mỹ cùng nghiên cứu sinh Việt Nam tại các đại học. Ai nấy đều đang sốt ruột mong tin và chưa biết quyết định bỏ cấm vận có thật hay không, nếu có sẽ diễn ra như thế nào?
Có người “mách” đại sứ Lê Văn Bàng – trưởng phái đoàn Việt Nam tại UN – vừa được mời tham dự một ngày lễ cùng đại sứ các nước Đông Nam Á ở thủ đô Washington và tiết lộ số điện thoại một khách sạn mà cán bộ ngoại giao Việt Nam thường lưu trú.
Tôi liền suy đoán: vào những ngày cả thế giới đang “hóng” tin Nhà Trắng mà phía Mỹ mời ông Bàng dự lễ ở Washington, chỉ là một động tác “nghi binh” chăng? Sau một giờ loay hoay gọi điện, tôi tìm được đúng khách sạn, đúng phòng và nối máy với ông Bàng.
Nghe tôi xưng danh phóng viên Tuổi Trẻ và từng phỏng vấn Thứ trưởng Vũ Khoan, ông vui vẻ đồng ý trả lời. Ông thông báo sắp đi họp ở Bộ Ngoại giao Mỹ càng làm tôi phấn khích và tò mò. Ông kể với tôi về cuộc lễ ngày hôm qua, chẳng phải tình cờ mà ông được xếp đứng cạnh dân biểu Pete Peterson, cựu phi công Mỹ bị bắn rơi và từng là tù binh ở Hà Nội nhưng lại là người đang cùng nhiều chính khách – cựu chiến binh lên tiếng hòa giải với Việt Nam.
Tôi hỏi về tin bỏ cấm vận, ông Bàng nói không thể xác nhận nhưng cuộc trao đổi giữa hai bên về vấn đề này đã tiến hành trong thời gian qua. Bộ Ngoại giao Mỹ từ lâu đã tập hợp hàng chục chuyên viên nói rành tiếng Việt để chuẩn bị cho bang giao hai nước.
Phía Mỹ sẽ tổ chức họp báo ở Nhà Trắng và mời đại sứ Việt Nam đến thông báo quyết định của Tổng thống Mỹ. Ô la la, bỗng dưng tôi linh cảm cuộc họp mà ông sắp đến Bộ Ngoại giao Mỹ hôm nay chính là sự kiện đó.
Thực tế diễn ra đúng như vậy! Vào thứ năm 3-2-1994, không chỉ Bộ Ngoại giao Mỹ mời ông Bàng đến thông báo lệnh bỏ cấm vận Việt Nam, mà cùng thời gian Tổng thống Clinton ngay sau khi tiếp các hội đoàn cựu chiến binh Mỹ đã mở cuộc họp báo công bố quyết định lịch sử ngay tại Nhà Trắng. Rất tiếc, báo Tuổi Trẻ vào năm 1993 chỉ xuất bản vào các ngày thứ ba – năm – bảy nên bài phỏng vấn của tôi được đăng trễ một ngày – số báo thứ bảy 5-2.
Tuy vậy, tôi vẫn rất vui, bạn bè đồng nghiệp trong lớp đều tay bắt mặt mừng khi biết tin Mỹ bỏ cấm vận và hiểu được vì sao tôi bám trụ ở chiếc máy điện thoại, ngủ lại trong văn phòng suốt mấy hôm liền.
Một năm sau, từ “cuộc hạnh ngộ” qua phone đầu tiên, tôi có cơ duyên tiếp tục phỏng vấn qua điện thoại với Đại sứ Lê Văn Bàng về bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ. Lần này, ngày 10-7-1995 từ căn hộ riêng ở New York, ông hé lộ chắc chắn chính phủ hai nước – từng là cựu thù trong chiến tranh – sẽ có tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ vào ngày mai.
Ngay sáng hôm sau, tin ấy xuất hiện trang trọng trên trang nhất báo Tuổi Trẻ theo dạng nguồn tin riêng. Tờ báo của chúng tôi là đơn vị truyền thông duy nhất loan tin trước sự kiện trọng đại sẽ diễn ra vài giờ sau!
Kế tiếp, cánh báo chí chúng tôi lại được quan sát tại chỗ một sự kiện có ý nghĩa nối tiếp: Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – tổ chức khu vực mà Việt Nam vừa được kết nạp đúng 18 ngày sau khi Việt – Mỹ công bố quan hệ mới. Hội nghị diễn ra tại Bangkok vào các ngày 14 và 15-12-1995 với sự tham dự lần đầu tiên của Thủ tướng Việt Nam.
Đó cũng là thời gian tôi thực tập “đeo bám” nhiều cuộc họp báo, gặp gỡ trong và ngoài một sự kiện quốc tế. Niềm vui lớn nhất của tôi trong chuyến đi này là được tham gia và đưa tin về cuộc “họp báo trên không” đột xuất của Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngay trên chuyến bay từ Thái Lan về Hà Nội.
Ông phát thông điệp thẳng thắn trước báo chí: “Việc Việt Nam tham gia ASEAN sẽ không gây tổn thương quan hệ với các nước khác!”. Lời tuyên bố của Thủ tướng là thông điệp mạnh mẽ cho thấy Việt Nam kiên quyết thực hiện đường lối bang giao đa phương sau một thời gian dài bị cô lập. Vào những năm tháng đó, quyết sách bang giao đa phương không phải không gặp sự nghi kỵ, thắc mắc tới lui trong và ngoài nước…
Một dòng chảy xuyên suốt
Từ 1995 trở đi, cánh cửa hội nhập thay vì mở hé từ từ đã mở toang từ cả hai phía: Việt Nam ra – Thế giới vào. Việt Nam sẽ không bao giờ quay lại chế độ quan liêu – bao cấp, tiếp tục tiến hành cải cách bộ máy nhà nước và nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, học hỏi từ nhiều nước tiên tiến.
Vào tháng 11-1997, visa xuất cảnh được bãi bỏ, công dân Việt Nam đi ra nước ngoài không cần xin giấy phép. Cùng thời điểm này, Việt Nam đã kịp thời hòa mạng Internet. Số lượng hãng xưởng tư nhân được thành lập tăng mạnh sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000. Cũng trong năm ấy, hiệp định thương mại đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam được ký kết.
Bảy năm sau, qua nhiều lần đàm phán gay go, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đứng cùng sân chơi pháp lý và làm ăn với 150 nước. Xuất nhập khẩu hàng hóa, đồng vốn và công nghệ mới, du học sinh ra và chuyên gia vào nhịp nhàng, bùng nổ liên tục. Những lo lắng “hòa nhập – hòa tan” dần dần nhường bước cho những lo toan chung của nhiều vấn đề “toàn cầu hóa” như xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phòng chống biến đổi khí hậu, thời đại 4.0, an ninh hàng hải…