Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 138/2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và nghị định 06/2023 về kiểm định chất lượng đầu vào công chức.
Trước đó, dự thảo nghị định được đưa ra lấy ý kiến của các thành viên Chính phủ và tất cả đều thống nhất thông qua.
Trong đó, 12 thành viên Chính phủ biểu quyết thông qua dự thảo và không có ý kiến khác; 11 thành viên biểu quyết thông qua dự thảo và đề nghị tiếp thu, chỉnh lý hoặc giải trình một số nội dung.
5 trường hợp xem xét tạm đình chỉ công tác với công chức
Đáng chú ý, dự thảo nghị định bổ sung quy định mới về tạm đình chỉ công tác với công chức.
Theo đó, công chức bị tạm đình chỉ theo các căn cứ quy định tại điều 81 của Luật Cán bộ, công chức và các căn cứ sau:
1. Có hành vi vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống gây ảnh hưởng tiêu cực, bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng xấu đến uy tín tổ chức, cá nhân.
2. Có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực thi công vụ.
3. Cố tình trì hoãn, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không thực hiện công việc thuộc thẩm quyền theo chức năng, nhiệm vụ được giao; đang bị xem xét, xử lý kỷ luật mà cố ý không thực hiện yêu cầu của cấp có thẩm quyền trong quá trình xem xét, xử lý vi phạm của bản thân hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn, ảnh hưởng của mình, của người khác để tác động, gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý.
4. Đã bị xử lý kỷ luật đảng và đang trong thời gian chờ xem xét, xử lý chức vụ chính quyền mà nếu tiếp tục công tác sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
5. Có văn bản đề nghị tạm đình chỉ công tác của cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc của cơ quan khác có thẩm quyền.
Về thẩm quyền tạm đình chỉ công tác đối với công chức thực hiện theo quy định của cấp có thẩm quyền.
Đối với thời hạn tạm đình chỉ công tác không quá 15 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài thời gian tạm đình chỉ nhưng không quá 15 ngày.
Thời hạn tạm đình chỉ đối với trường hợp có văn bản đề nghị tạm đình chỉ công tác của cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc của cơ quan khác có thẩm quyền thực hiện theo đề nghị của cơ quan đề nghị.
Liên quan đến quy trình xem xét tạm đình chỉ công tác, dự thảo nêu rõ khi xác định có căn cứ tạm đình chỉ, trong thời hạn 2 ngày, bộ phận tham mưu về tổ chức cán bộ có trách nhiệm tiến hành xác minh ngày báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền.
Chậm nhất sau 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề xuất của bộ phận tham mưu về tổ chức cán bộ, người đứng đầu ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với công chức.
Trường hợp tạm đình chỉ công tác không đúng quy định hoặc khi có kết luận công chức không vi phạm, chậm nhất sau 3 ngày làm việc kể từ ngày có đủ cơ sở, người đứng đầu ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ công tác đối với công chức, đồng thời báo cáo cấp có thẩm quyền quản lý công chức.
Thể chế hóa quy định 148 của Bộ Chính trị
Trong báo cáo tiếp thu, giải trình, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà nêu rõ việc bổ sung quy định trên nhằm thể chế hóa quy định 148 của Bộ Chính trị về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Dự thảo nghị định bổ sung quy định về tạm đình công tác đối với công chức trong trường hợp cần thiết (về thẩm quyền tạm đình chỉ, căn cứ tạm đình chỉ, thời hạn tạm đình chỉ, quy trình xem xét tạm đình chỉ).
Đồng thời, để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn quản lý, điều hành, bộ bổ sung quy định đối với các trường hợp khác không thuộc thẩm quyền tạm đình chỉ của Thủ tướng thì Thủ tướng có quyền yêu cầu cấp có thẩm quyền thực hiện việc tạm đình chỉ theo thẩm quyền.
Với các trường hợp công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý quyết định hoặc phân cấp, ủy quyền việc quyết định tạm đình chỉ theo đúng quy định 148 của Bộ Chính trị.